đấy là chưa kể nếu việc xác định
không đúng hành vi xâm phạm quyền còn dẫn đến tình trạng xử lý sai hay khởi
kiện không đúng, gây ra những hậu quả đáng tiếc làm thiệt hại không nhỏ đến
những doanh nghiệp (DN) làm ăn chân chính là làm mất lòng tin vào hệ thống thực
thi quyền SHTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng nhu
hiện nay.
Để thực thi (bảo vệ) quyền SHTT có
hiệu quả, điều trước tiên là phải xác định đúng các hành vi bị coi là xâm phạm
quyền. Trong thực tế nhiêu DN và các cơ quan chức năng không dễ dàng xác định
được hành vi xâm phạm quyền.
Vì thế nhiều DN còn lúng túng trong
việc tự bảo vệ quyền SHTT của mình, các cơ quan chức năng ngại hoặc né tránh xử
lý xâm phạm. Chỉ khi nào thật cần thiết, nếu cần phải xử lý thì DN lại tiến
hành yêu cầu giám định và các cơ quan chức năng trưng cầu giám định quyển SHTT
để khởi kiện hoặc xử lý xâm phạm quyền.
Song dù có thực hiện trưng cầu hay
yêu cầu giám định, thì khi xử lý xâm phạm hay khởi kiện, cơ quan chức năng vẫn
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những quyết định xử lý của mình, cũng như
doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về chứng cứ gửi kèm theo yêu cầu khởi
kiện, bất chấp kết quả giám định đúng hay sai. Điều đó để nói rằng những kiến
thức và kinh nghiệm trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT, nhất là
đối với thương hiệu là rất cần thiết đối với doanh nghiệp và cơ quan chức năng.
Bài viết sẽ chia sẻ những thông tin
liên quan, giúp cho công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có hiệu
quả góp phần cải thiện hình ảnh của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế về
vấn đế thực thi quyền SHTT.
Trước hết, cần tìm hiểu thế nào là
hành vi xâm phạm quyền SHTT. Việc người thứ ba sử dụng các sáng chế, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp ... đang trong thời hạn bảo hộ và trong lãnh thổ bảo hộ
mà không được phép của người nắm giữ quyền nhằm mục đích kinh doanh và không
thuộc các trường hợp loại trừ, thì bì coi là xâm phạm quyền SHTT (sở hữu công
nghiệp).
Người thứ ba, được hiểu là bất cứ ai
ngoài người nắm giữ quyền SHTT ra, kể cả tồ chức cá nhân trong nước và nước
ngoài. Việc sử dụng các đối tượng trên đây bất chấp là cố ý hay vô ý nhằm mục
đích kinh doanh (kiếm lời) mà không có sự cho phép của người chủ sở hữu hay
người được chủ sở hữu ủy quyền sử dụng đối tượng thông qua hợp đồng li xăng.
Hơn nữa các sáng chế nhãn hiệu kiểu
dáng công nghiệp đó phải đang được bảo hộ và trong lãnh thố bảo hộ. Tức là, các
sáng chế nhãn hiệu kiểu dáng công nghiệp được Nhà nước (cục SHTT) cấp văn bằng
bảo hộ và không bị chấm dứt hiệu lực văn bằng trước thời hạn hay bị hủy bỏ hiệu
lực văn bằng bảo hộ.
Điều đó cũng có nghĩa là, bất cứ
người nào sử dụng sáng chế, nhãn hiệu kiểu dáng công nghiệp trên lãnh thổ Việt
Nam sẽ không bị coi là xâm phạm quyền SHTT nếu các đối tượng đó không được Cục
SHTT cấp văn bằng bảo hộ, kể cả trước đó nó được cấp văn bằng ở các nước khác,
hoặc được cấp nhưng văn bằng bảo hộ đã bị chấm dứt hiệu lực trước thời hạn hoặc
bị hủy bỏ hiệu lực.
Việc chấm dứt hiệu lực có thể do
không nộp lệ phí duy trì hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế hay không sử dụng
nhãn hiệu liên tục trong 5 năm mà không có lý do chính đáng ...Văn bằng bảo hộ
cũng có thể bị hủy bỏ hiệu lực do người nộp đơn không có quyền nộp đơn mà thiếu
trung thực trong quá trình làm thủ tục đăng ký, hoặc đối tượng không thỏa mãn
tiêu chuẩn bảo hộ tại thời điểm cấp văn bằng.
Ngoài ra việc sử dụng sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp cũng sẽ không bị coi là xâm phạm quyền ngay cả khi nó đang
được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ vì mục đích cá nhân không kiếm lời), như
giảng dạy, nghiên cứu ... hay nhằm khắc phục sự cố các phương tiện giao thông
đang tạm thời quá cảnh trên lãnh thố Việt Nam.
Trên thực tế, việc xác định các hành
vi xâm phạm quyền SHTT phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể. Nếu là sáng chế,
phải xác định xem sản phẩm, bộ phận sản phẩm hay quy trình có trùng hoặc tương
đương với sản phẩm bộ phận sản phẩm quy trình được cấp bằng độc quyền sáng chế
không.
Hoặc là, sản phẩm, bộ phận sản phẩm
có được sản xuất theo quy trình được cấp bằng độc quyền sáng chế không. Đối với
kiểu dáng công nghiệp cũng tương tự như vậy, đó là xem cả bộ sản phẩm hoặc từng
phần sản phẩm có khác biệt đáng kể với kiểu dáng được cấp bằng không.
Riêng đối với nhãn hiệu (thương
hiệu) chúng ta phải đánh giá yếu tố xâm phạm ở cả hai khía cạnh, đó là dấu hiệu
dùng làm nhãn hiệu và cả hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu đó. Trước hết, chúng
ta phải xác định dấu hiệu vi phạm ờ mức độ giống hoặc tương tự gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu được bảo hộ ở các khía cạnh như về cấu tạo của nhãn hiệu, cách trình
bày (cả tế màu sắc), cách phát âm phiên âm, chữ và ý nghĩa của chữ đó (nếu nhãn
hiệu là chữ khác tiếng Vệt).
Có nghĩa là, chúng ta phải đánh giá
trên tất cả các yếu tố đó nếu chỉ cần có một yếu tố giống hoặc tương tự với
nhãn hiệu được bảo hộ thì hoàn toàn có kết luận dấu hiệu đó đã vi phạm. Thứ
hai, dấu hiệu giống hoặc tương tự đó phải gắn lên hàng hóa/dịch vụ giống nhau
hoặc tương tự về bản chất, hoặc có liên hệ về chức năng công dụng và cùng kênh
tiêu thụ.
Như vậy, một nhãn hiệu bị kết luận
là xâm phạm nhãn hiệu của người khác có thể thuộc một trong hai hình thức sau
đây: Hình thức thứ nhất là xâm phạm dưới hình thức giống hệt tức là dấu hiệu
hoàn toàn trùng nhau gắn lên hàng hóa/dịch vụ giống nhau (giống y trang). Ví dụ
như nhãn hiệu TRƯỜNG SINH cùng gắn lên sản phẩm sữa đặc có đường và sữa đậu
nành mặc dù sữa đặc có đường làm từ sữa động vật, còn sữa đậu nành làm từ các
loại đậu (thực vật).
Hình thức thứ hai là tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ, nếu dấu hiệu tương tự nhau gắn lên hàng
hóa/dịch vụ giống nhau hoặc dấu hiệu giống hệt nhau nhưng gắn lên hàng hóa/dịch
vụ có liên quan đến nhau. Thậm chí còn tinh vi hơn khi mà dấu hiệu tương tự
nhau cùng gắn lên hàng hóa/dịch vụ có liên quan đến nhau.
Trong thực tế, hầu hết các hành vi
xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu chủ yếu dưới hình thức tương tự gây nhầm lẫn,
vì vậy không dễ gì xác định được ngay đó là hành vi xâm phạm để tiến hành xử lý
hoặc khởi kiện.
Trong những trường hợp như vậy, nếu
doanh nghiệp hoặc các cơ quan chức năng không tự xác định được hành vi xâm phạm
quyền trên cơ sở những kiến thức và kinh nghiệm trên đây thì nên tiến hành yêu
cầu hay trưng cầu giám định SHTT theo quy định của Luật SHTT và được Viện Khoa
học SHTT triển khai từ tháng 07-2009.
|