Việc bảo hộ quyền SHTT có hiệu quả sẽ là nhân tố quan trọng, góp
phần tăng cường công nghệ trong sản xuất - sản phẩm của các ngành nghề trong
nước thúc đẩy đầu tư nước ngoài; hạn chế và dần dần loại bỏ tình trạng xâm phạm
nghiêm trọng lợi ích của các chủ sở hữu trí tuệ, người tiêu dùng, nhà sản xuất,
nhà xuất khẩu; loại bỏ việc bóp méo cạnh tranh và thương mại…
Việc đảm bảo quyền SHTT, mà một trong những nội dung quan trọng
của nó là quyền sở hữu công nghiệp (SHCN),được thực thi là chiến lược đúng đắn,
bảo đảm phát triển bền vững, nhất là đối với Việt Nam - một nước đang ở trình
độ phát triển thấp. Nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc thực hiện
các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, nhất là các hiệp định của WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ, cũng như đáp ứng yêu cầu khách quan và hết sức bức xúc của công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự (BLHS) được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 19
tháng 6 năm 2009, đã sửa đổi cấu thành của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 171).Tuy nhiên, những quy định của Điều 171 BLHS mới được sửa đổi,
bổ sung về cơ bản là phù hợp song vẫn còn tồn tại bất cập trong việc tạo lập
một cơ chế thực thi và bảo hộ có hiệu quả quyền SHCN.
Điều
171BLHS sửa đổi, bổ sung: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy
định như sau:
“1.
Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn
địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thì bị phạt tiền từ
năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai
năm.
2.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ bốn trăm triệu
đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a)
Có tổ chức;
b)
Phạm tội nhiều lần.
3.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ một năm đến năm năm.”
Điều 171 BLHSnăm 1999 chưa sửa đổi, bổ sung quy định chỉ xử lý
hình sựđối với hành vi xâm phạm quyền SHCN trong trường hợp hành vi này thực
hiện vì mục đích kinh doanh và gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người vi phạm đã
bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án mà còn vi phạm. Tuy nhiên, theo yêu cầu
của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) và TRIPS thì các nước thành
viên có nghĩa vụ quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các hình phạt để
áp dùng ít nhất đối với các trường hợp cố ýlàmgiả nhãn hiệu hàng hoá nhằm mục
đích thương mại (BTA) hoặc cố ý giả mạo nhãn hiệu hàng hoá với quy mô thương
mại (TRIPS). Yếu tố quy mô thương mại chưa được giải thích một cách chính thức
tại một chuẩn mực quốc tế nào, tuy nhiên, như đã nói trên, quy mô thương mại
cóthể được hiểu là nhằm mục đích kinh doanh và hàng hoá vi phạm được đưa ra thị
trường với số lượng lớn hoặc người vi phạm thu lời bất chính lớn từ việc kinh
doanh này. Nếu hiểu được như thế thì yếu tố quy mô thương mại đã bao gồm cả mục
đích thương mại.Đồng thời, xuất phát
từ quan điểm việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu được thực hiện bằng các
biện pháp pháp luật dân sự và hành chính, còn biện pháp hình sự chỉ áp dụng
trong phạm vi hẹp, trong trường hợp thật cần thiết khi vi phạm có tính chất,
mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, quy mô vi phạm xảy ra lớn, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS đã sửa đổi cấu thành của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp (Điều 171 BLHS) theo hướng thu hẹp đáng kể phạm vi xử lý về
hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền SHCN cả về đối tượng SHCN lẫn tính chất,
mức độ và quy mô vi phạm. Cụ thể, chỉ xử lý về hình sự hành vi cố ý xâm phạm
quyền SHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với
quy mô thương mại; trường hợp vi phạm chưa thuộc phạm vi "quy mô thương
mại" thì áp dụng các biện pháp dân sự, hành chính để xử lý. Như vậy, các
hành vi phạm tội xâm phạm quyền SHCN đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác (ngoài nhãn hiệu và
chỉ dẫn địa lý) theo quy định tại Điều 171 BLHS năm 1999 đã được phi hình sự
hoá để xử lý bằng các biện pháp khác.
Ngoài ra, Điều 14 của BTA và Điều 61 của TRIPS yêu cầu các nước
thành viên phải quy định các hình phạt tù hoặc phạt tiền hoặc cả hai đủ để ngăn
ngừa các hành vi xâm phạm quyền SHCN, phù hợp với mức hình phạt áp dụng đối với
tội danh có mức độ nghiêm trọng tương ứng. Do đó, để đáp ứng yêu cầu nói trên
và xem xét đến những thiệt hại kinh tế mà hành vi xâm phạm quyền SHCN có thể
gây ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS đã tăng mức phạt tiền tại khoản 1 và khoản 3
và bổ sung phạt tiền vào khoản 2 Điều 171 BLHS.
Tuy
đã sửa đổi, bổ sung nhưng quá trình nhận định, đánh giá những quy định của Điều
171 BLHS vẫn còn gặp những khó khăn, vướng mắc cần phải nhanh chóng khắc phục:
Thứ
nhất, khó khăn trong việc xác định “quy
mô thương mại”. Hiện nay, khái niệm này vẫn chưa được quy định trong BLHS,
cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy, khi vận dụng các quy định của
Điều 171, các cơ quan tiến hành tố tụng khó có thể áp dụng thống nhất và dẫn
đến tình trạng mỗi cơ quan hiểu nội hàm của khái niệm “quy mô thương mại” theo
những cách khác nhau.
Thứ
hai, về quy định tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp và các tội về sản xuất, buôn bán hàng giả(Điều 156: Tội
sản xuất, buôn bán hàng giả; Điều 157: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Điều 158: Tội
sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng trong chăn nuôi, phân bón, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi). Các quy định pháp
luật hình sự hiện hành chưa làm rõ được sự khác biệt giữa tội xâm phạm quyền
SHCN và tội sản xuất và buôn bán hàng giả, trong đó, vấn đề mấu chốt là chưa
quy định sự khác biệt giữa hàng giả và hàng xâm phạm quyền SHCN.
Theo
Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000 của Bộ
thương mại, Tài chính, Công an, Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực
hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản
xuất và buôn bán hàng giả, hàng giả gồm có: Hàng giả về nội dung (giả về chất
lượng hoặc công dụng) thường là những hàng hoá không có giá trị sử dụng hoặc
giá trị sử dụng không đúng với tên gọi, công dụng của nó, không đảm bảo tính
năng, tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm đã được quy định; Hàng giả về hình thức
là hàng giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ
hàng hóa; Hàng giả cả về nội dung và hình thức.Mặc dù không có quy định cụ thể,
tuy nhiên có thể hiểu hàng xâm phạm quyền SHCN là hàng có được từ những hành vi
sử dụng trái phép các đối tượng của quyền SHCN (nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý).Rõ
ràng, quy định của pháp luật hiện hành về hàng giả và hàng xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp có một bộ phận trùng nhau. Đó là trường hợp hàng giả về hình
thức và hàng xâm phạm quyền sở hữu SHCN đối với nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa
lý.Việc áp dụng tội danh nào ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người phạm tội
và cả chủ sở hữu đối tượng SHCN.Nếu nhầm lẫn giữa hai điều luật này vô cùng
nguy hiểm, có thể dẫn đến hệ quả là tăng hình phạt cho người phạm tội hoặc giảm
nhẹ hình phạt cho người phạm tội. Thực tiễn cho thấy, mặc dù trong nhiều trường
hợp, hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành của tội xâm phạm quyền SHCN
nhưng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại truy tố, xét xử theo tội sản xuất,
buôn bán hàng giả. Hoặc ngược lại, hành vi đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành
của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả nhưng chỉ bị xử lý theo tội xâm phạm
quyền SHCN.
Thứ
ba, BLHSchỉ cho phép các cơ quan tiến
hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân vi phạm pháp luật
hình sự mà chưa quy định đối với pháp nhân. Trong khi đó, chủ thể thực hiện các
hành vi xâm phạm quyền SHCN thường do các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân nên
trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều
khó khăn, không thể xử lý hình sự đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi vi
phạm được.
Thứ tư,Khoản 1, Điều 105, BLTTHS năm 2003
quy định: “Những vụ án về các tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 104,
105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật Hình sự năm 1999
thì chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất”. Như vậy, các hành vi xâm phạm quyền SHCN tuy đã đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm nhưng chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu của chủ sở hữu
đối tượng SHCN. Lợi dụng quy định này, các đối tượng thực hiện hành vi xâm phạm
quyền SHCN khi bị phát hiện thì sử dụng thủ đoạn thỏa thuận, mua chuộc các chủ
sở hữu đối tượng SHCN để họ không yêu cầu khởi tố vụ án. Điều này đã tạo ra tâm
lý ức chế cho các cán bộ đã tiến hành phát hiện, điều tra, khám phá các hành vi
trên, đồng thời không đảm bảo tính răn đe của pháp luật. Ngoài ra, trong thực
tế có nhiều trường hợp không thể xử lý hình sự các hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với các nhãn hiệu nổi tiếng do các chủ các nhãn hiệu này không có văn phòng
đại diện ở Việt Nam, khó khăn trong việc liên lạc với chủ sở hữu hợp pháp của
các nhãn hiệu này.
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng
Điều 171 Bộ luật hình sự, cần tiến hành các giải pháp sau:
Thứ nhất,
cần quy định rõ nội hàm của cụm từ “quy mô thương mại” để các cơ quan tiến hành
tố tụng có thể áp dụng một cạch thống nhất.Khái
niệm xâm phạm với “quy mô thương mại” là một khái niệm được TRIPs và HĐTM sử
dụng.“Quy mô thương mại” (commercial scale) là cụm từ được Điều 61 của
TRIPs sử dụng.“Quy mô thương mại” có thể được hiểu theo nhiều cách khác
nhau và được diễn giải bởi các quốc gia để bao gồm các hành vi khác nhau. Nhìn
chung xâm phạm với “quy mô thương mại” nên được hiểu là các hành vi được
thực hiện một các có chủ ý nhằm mục đích sinh lợi, không kể giá trị của vi
phạm;hoặc những hành vi tuy không nhằm mục tiêu sinh lợi nhưng gây ảnh hưởng
lớn đến quyền khai thác tài sản trí tuệ của chủ thể quyền.
Thứ hai, ban hành thông tư sửa
đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số
10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT cho phù hợp với những quy định mới của Bộ luật
hình sự và Luật sở hữu trí tuệ, giải quyết việc trùng lẫn giữa phạm vi điều
chỉnh của Điều 156,157, 158 và Điều 171 đối với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu. Cần
phải phân định rạch ròi hai tội danh vì hai tội danh này rất khác nhau về thủ
tục tố tụng và mức hình phạt. Về thủ tục tố tụng, nếu xác định người phạm tội
thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, về nguyên tắc, cơ quan chức năng
có quyền tiến hành khởi tố vụ án hình sự ngay sau khi phát hiện ra hành vi phạm
tội và yêu cầu chủ sở hữu đối tượng SHCN tham gia tố tụng với tư cách là người
bị hại. Còn nếu xác định ngừơi phạm tội đã thực hiện hành vi xâm phạm quyền
SHCN, theo Khoản Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự, các cơ quan chức năng chỉ có
thể khởi tố vụ án khi có yêu cầu từ phía chủ sở hữu đối tượng SHCN. Về mức hình
phạt, nếu người phạm tội bị xử lý theocác tội sản xuất và buôn bán hàng giả,
mức hình phạt cao nhất là tử hình (khoản 4 Đ157); trong khi đó nếu bị xử lý
theo tội xâm phạm quyền SHCN, mức hình phạt tù cao nhất chỉ là 3 năm tù giam.
Thứ
ba, thiết lập chế định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân nhằm xử lý về mặt hình sự các hành vixâm phạm quyền SHCN của
các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối
với việc thực thi các quy định của Điều 171 mà còn có mở rộng phạm vi xử lý đối
với các tội phạm về môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao…
Thứ
tư, sửa đổi Điều 105 Bộ luật tố tụng
hình sự theo hướng cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng có thể khởi tố các
hành vi xâm phạm quyền SHCN mà không cần phải có yêu cầu của người bị hại. Qua
đó, đảm bảo được tính răn đe của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ
sở hữu đối tượng SHCN và của người tiêu dùng.
Tóm lại, với những điểm mới và tiến
bộ của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự thì những quy định
về tội danh và hình phạt trong Điều 171 Bộ luật hình sự đã đáp ứng ngày càng
tốt hơn những yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình
hình mới hiện nay. Tuy nhiên, để Bộ luật hình sự ngày càng hoàn thiện, có tính
khả thi cao trong quá trình áp dụng vào thực tiễn công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm từ đó tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho xã hội thì vấn đề
cần tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung tội phạm và hình phạt trong phần các tội phạm
của Bộ luật hình sự là vấn đề vô cùng cần thiết và cấp bách. Trên đây là một số
vấn đề vướng mắc, bất cập và hướng giải quyết trong thực tiễn áp dụng những quy
định của Điều 171 Bộ luật hình sự cần tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung.
CN.
Nguyễn Đình Nhựt
Khoa NV CSPC TPKT
|